Posted by Bá Lz đọc cho biết (136..148.34) on June 16, 2025 at 00:22:26:
In Reply to: Re: cuộc sống vô thường posted by Lz on June 15, 2025 at 17:21:19:
Lương Vơ Đế (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là Tiêu Diễn (蕭衍), tự là Thúc Đạt (叔達), tên khi c̣n nhỏ Luyện Nhi (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều Lương thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ ông trị v́ là một trong những giai đoạn ổn định nhất và thịnh vượng nhất của Nam triều.
Vơ Đế đă cho mở các trường học và mở rộng các kỳ thi khoa cử, yêu cầu con trai của các quư tộc phải học tập. Ông cũng ham đọc sách, sáng tác thơ và bảo trợ cho nghệ thuật phát triển. Mặc dù triều đ́nh lấy Nho giáo làm chủ đạo, song ông tin theo Phật giáo và bị thu hút trước nhiều phong tục Ấn Độ. Ông đă ngăn cấm hiến tế động vật và chống lại việc hành h́nh. Ông được cho là đă tiếp thu nhiều châm ngôn Phật giáo trong thời gian trị v́, do vậy có biệt danh là Bồ Tát Hoàng đế (菩薩皇帝).
Vào cuối thời gian trị v́ của ḿnh, ông đă phải trả giá đắt do có quan điểm quá khoan dung đối với các thành viên trong hoàng tộc và nạn hủ bại của các quan lại, cũng như thiếu cống hiến cho quốc gia. Khi tướng Hầu Cảnh nổi loạn, ông chỉ nhận được rất ít cứu trợ, v́ thế Hầu Cảnh đă chiếm được kinh thành Kiến Khang, kiểm soát chặt chẽ Vơ Đế và Giản Văn Đế và đẩy nhà Lương vào t́nh trạng hỗn loạn. Lương Vơ Đế đă qua đời trong khi bị quản thúc, một số sử gia tin rằng Hầu Cảnh đă bỏ đói Lương Vơ Đế đến chết.
Với thời gian trị v́ hơn 40 năm và thọ 85 tuổi, ông là Hoàng đế có tuổi thọ cao thứ hai của Trung Hoa chỉ sau Hoàng đế Càn Long (88 tuổi).
A-dục vương
Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Ashoka Đại đế
Hoàng đế Mauryan
Trị v́ 273 – 232 trước Công nguyên
Tiền nhiệm Bindusara
Kế nhiệm Dasaratha Maurya
Thông tin chung
Sinh 304 trước TCN
Pataliputra (Patna ngày nay)
Mất 232 TCN
Ashoka Đại Đế (br. 𑀅𑀲𑁄𑀓 sa. aśoka, pi. asoka, zh. 阿育王, hv. A Dục) là vị vua thứ ba của vương triều Ma-gát-đa (sa. maurya, zh. 孔雀, hv. Khổng Tước) thời Ấn Độ xưa, trị v́ Ấn Độ từ năm 273 đến 232 trước CN.[1] Là một trong những hoàng đế kiệt xuất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đă toàn thắng trong loạt các cuộc chinh phạt và cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một vị vua ủng hộ Phật giáo, nhưng khi mới lên ngôi, ông được mệnh danh là A Dục vương bạo ác, ông lập ra những khung h́nh phạt tàn ác giống như các cảnh mô tả trong địa ngục để hành h́nh tội nhân, và ông đặt tên cho các ngục ấy là địa ngục trần gian. Về sau ông hối hận, Quy y Tam Bảo và đă lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo truyền thống Phật giáo, tên tuổi của ông gắn liền với việc truyền bá Phật giáo.
Vào khoảng năm 260 TCN Ashoka tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nhà nước Kalinga (ngày nay là Odisha).[2] Ông đă chinh phục Kalinga, điều mà tiên đế của ông là Chandragupta Maurya chưa bao giờ làm được. Ông xây dựng trung tâm cơ quan quyền lực của đế chế Maurya ở Magadha (nay là Bihar). Ông trở nên đề cao Phật giáo sau khi chứng kiến nhiều chết chóc trong chiến tranh Kalinga, mà bản thân ông đă thực hiện do khát vọng mở rộng đế quốc của ḿnh. "Ashoka suy ngẫm về trận chiến ở Kalinga, cuộc chiến mà người ta ngẫm rằng đă làm hơn 100.000 người chết và 150.000 người khác bị trục xuất."[3] Ashoka đă quy y Tam bảo vào khoảng 263 TCN.[2] Sau đó ông đă hoằng dương giáo pháp nhà Phật ra khắp châu Á, và thiết lập các di tích đánh dấu nhiều địa danh quan trọng trong cuộc đời truyền pháp của Phật tổ Thích-ca Mâu-ni.[4]
Tên ông cũng được gọi theo dịch tiếng Hán Việt khác là A-du-ca (zh. 阿輸迦), A-du-già (阿輸伽), A-thứ-già (阿恕伽), A-thú-khả (阿戍笴), A-thúc (阿儵), hoặc dịch nghĩa là Vô Ưu (無憂), hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là Thiên Ái Hỉ Kiến (zh. 天愛喜見, sa. devānaṃpriya priyadarśi), nghĩa là "người được chư thiên thương, người nh́n sự vật với tấm ḷng hoan hỉ". Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ xưa (sa. bhāratavarṣa) đă thống nhất được một lănh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay.
--
Vua A Xà Thế
Ajatashatru (A Xà Thế, zh. 阿闍世, sa. ajātaśatru, pi. ajātasattu, bo. ma skyes dgra མ་སྐྱེས་དགྲ་) là vua nước Magadha – một vương quốc cổ ở phía bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Ông đă trị v́ Magadha trong 8 năm cuối cùng tại thế của Phật Thích-ca Mâu-ni và 22 năm kế tiếp (khoảng 491 - 461 trước Công nguyên). Ông là người giết hại vua cha Bimbisara (Tần-bà-sa-la) và cùng Đề-bà-đạt-đa (sa., pi. devadatta) định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự Phật pháp. Dưới thời Ajatashatru, Magadha trở thành vương quốc cường thịnh nhất ở miền Bắc Ấn Độ[1].
Tên gọi
Thái tử Ajatashatru có ba cái tên
Ajatashatru được dịch là "Vị sinh oán" (zh. 未生怨) - với ư kết oán trước khi sinh - là kẻ khi sinh ra được tiên đoán sẽ giết cha. Ajatashatru muốn đoạt quyền quá sớm, cùng với Đề-bà-đạt-đa âm mưu vừa giết Phật vừa giết cha. Âm mưu này bại lộ, vua Bimbisara tha tội cho con và giao ngai vàng. Ajatashatru vẫn không yên tâm v́ vua cha c̣n sống, nên đă hạ ngục và bỏ đói vua cha. Thấy Bimbisara vẫn vui vẻ Ajatashatru cho người giết vua cha.
Bà-la-lưu-chi khi sinh thái tử ra, hoàng hậu Vaidehi bồng thái tử đứng trên lầu cao, nghe mấy thầy tu đoán ân oán thái tử như vậy nên bủn rủn tay chân mà đánh rơi thái tử xuống đất hư hết một ngón tay, nên thái tử có thêm tên Bà-la-lưu-chi (người hư một ngón tay).
Thiện-kiến sau đó mọi người trong hoàng tộc thấy ngẫu nhiên thái tử có những cái tên không hay bèn thống nhất gọi một cái tên khác là Thiện-kiến.
Thái tử ngỡ rằng ḿnh chỉ có tên Thiện-kiến nhưng sau khi gặp Đề-bà-đạt-đa, ông này có ư đồ xấu nên kể căn cội hai cái tên kia cho thiện-kiến biết. Từ đó ác nghiệp bắt đầu bùng phát trong hành vi của Ajatashatru.